26. Con cốc và con thiêng
Đồ xưa, con cóc da trơn tru còn con thiêng ở chốt đuôi có đầy lông. Ngày ấy có hai vợ chồng con thiêng làm bạn với một con cóc,
Do con thiêng vợ có mang, nên tổ của vợ chồng con thiêng này phải làm trên ngọn cây cau cho an toàn. Khi đẻ con được ba ngày, vợ chồng thiêng làm lễ ăn mừng. Thiêng chồng xuống mời cóc lên chơi. Cóc nối với thiêng:
- Hai bạn sinh con, tôi rất mừng. Tôi cũng muốn lên thăm hai
“Bạn lắm, nhưng không biết trèo cây."
Thiêng chồng nói:
- Không lo. Bạn cũ ngâm chắc lấy đuôi tôi, tôi sẽ kéo bạn lên.
Nhưng phải nhỏ là, khi chưa vào tố, nhô vợ tôi có hôi, bạn chô trả lời.
Trước khi đi mời bạn, thiêng chồng cũng dặn đi dặn lại vợ là khí cô cóc đến, phải đợi cho cóc vào hắn trong tổ đã mới hỏi.
Cóc nghe lời ngậm chặt lấy đuôi con thiêng. Con thiêng chồng gắng hết sức kéo cóc lên đến ngọn cây cau. Hai con mới đến miệng tố, thiêng vợ nhìn thấy, mừng qua quên lời dận của chồng, bèn hỏi cóc:
- Bạn lên chơi à?
Cóc cũng quên lời thiêng chồng dân, mở miệng chưa kịp trả lời đã bị rơi từ trên cao xuống đất. Do bị rơi từ trên cao xuống, cóc bị gẫy lưng, mặt va vào đã, mắt lòi ra, mình bị gai đâm mưng mù, nổi mụn đây người. Từ đó, cóc bị gù lưng, mất lòi ra, cao hơn mặt, mình đầy mụn, trong có mù trắng. Hễ trời chuyến mưa, cóc đau hết cả mình mấy, nghiến răng kêu "ken két".
Còn con thiêng, cái đuôi do cóc ngậm lâu, nóng chín da, chỉn thịt, lóc hết lông. Từ đó thiêng đẻ con ra, con nào cũng giống cha: đuôi không có lông, da đuôi xám và rất mềm. Hể ta túm tay vào đuôi con thiêng sống thì đuôi bị lóc hết da hết thịt, trơ xương ra trắng phau phau. Ra về, còn già làng phía bắc thì mừng lắm vì nghỉ phen này làng mình sẽ chiếm được nhiều phân đất vì sức chạy của ông nhanh mà hai làng chỉ cách nhau có lô đậm. Còn già làng phía nam sau khi nhận lòi ra về thì lâng lâng lên giường đi ngủ sớm. Lúc gà cất tiếng gây đầu tiên là ông trờ đây đi ngay. Đi một mạch đến mặt trời mọc, không đề ông đã đến được đậm thứ 14. Cùng lúc đó thì ông gặp già làng phía bắc, mới đi được hai đậm ngược chiều. Theo cam kết, ranh giới giữa hai làng sẽ được chia ở đó. Thua cuộc, làng Đại căm tức lắm, vẫn cứ gây gổ luôn với làng Thương, bất chấp lời cam kết. Làng Thượng đành phải xây ở đó một cái miếu để cùng thần chứng giám. Miếu ấy ngày nay vẫn còn và được gọi là miếu Chung. Từ khi có miếu Chung, làng Đại thôi không gây gồ nữa. Hai làng sống bên nhau hỏa thuận đến ngày nay.
Nguồn: " Văn học dân gian Quảng Bình" - Trần Hùng NXB Văn Hóa Quảng Bình