22. Truyền thuyết miếu chung
Ngày xưa, ở vùng biến nọ có hai làng cạnh nhau. Đã từ lâu, hai làng có nhiều hiềm khích trong việc tranh giành ranh
Một hôm hai già làng gặp nhau để bàn việc chia ranh giới và đặt lại tên làng. Già làng phía bắc nói: "Làng tôi rộng, người đông, lại giàu có, vậy tôi muốn đặt tên là làng Đại". Thấy thế, già làng phía nam mim cười nói: "Dược rồi, thế thì làng tôi tên là Thượng vậy. Ông Dại, tôi Thượng, cho khỏi trùng nhau".
Già làng phía bắc tức lắm, nhưng không nói gì được nữa, đành bấm bụng chịu. Sau đó, già làng phía nam lại nói đến chuyện chia đất, phân ranh giới hai làng.
Già làng phía bắc cậy mình khỏe hơn, lại chạy nhanh, nên đề nghị: "Sáng mai, đúng lúc mặt trời mọc, ông và tôi đều bắt đầu cùng xuất phát từ cuối làng của mình. Ta gặp nhau ở đâu, thì đó là ranh giới giữa hai làng. Già làng phía nam đồng ý và im lặng ra về, còn giả làng phía bắc thì mừng lâm vì nghĩ phen này làng minh sẽ chiếm được nhiều phân đất vì sức chạy của ông nhanh mà hai làng chỉ cách nhau có 16 đậm. Còn già làng phía nam sau khi nhận lôi ra về thì lẳng lặng lên giường đi ngủ sớm. Lúc gà cất tiếng gây đầu tiên là ông trời dậy đi ngay. Đi một mạch đến mặt trời mọc, không dẻ ông đã đến được đăm thứ 14. Cùng lúc đó thì ông gập già làng phía bắc, mời đi được hai dặm ngược chiều. Theo cam kết, ranh giới giữa hai làng sẽ được chia ở đôi. Thua cuộc, làng Đại căm tức lắm, vẫn cứ gây gổ luôn với làng Thượng, bất chấp lời cam kết. Làng Thượng đành phải xây ở đó một cái miếu để cúng thần chứng giảm. Miếu ấy ngày nay vẫn còn và được gọi là miếu Chung. Từ khí có miếu Chung, làng Đại thôi không gãy gồ nữa. Hai làng sống bên nhau hỏa thuận đến ngày nay.
Nguồn: " Văn học dân gian Quảng Bình" - Trần Hùng NXB Văn Hóa Quảng Bình