24. Truyền thuyết miếu Quan Hậu
Ngày xưa, đời nhà Nguyễn, dân xã Quảng Châu vốn gốc Nghệ Tĩnh di cư vào vùng Quảng Phương, gần thị trấn Ba Đòn ngày nay. Xa cảnh, ngái quê họ có cây sâu cuốc bảm mong tạo được cuộc sống no ấm nơi đất khách, nhưng rủi thay, vùng Quảng Phương qua lầy lội, cứ đến mùa ẩm ướt là muối sinh ra hằng hà sa số. Người già trẻ con rồi đến thanh niên trai tráng cũng theo nhau ngã bệnh. Không chịu được cảnh đói nghèo, bệnh tật, họ bỏ nhà, bỏ rây bồng bế nhau tìm đường về quê cũ. Khi đến chân đèo Ngang họ thấy những xóm làng trù phú đã mọc lên hai bên đường. Các trai tráng bảo nhau: Mình vốn là dân cũng khó, người thì mang công mắc nợ, kẻ thì lâm vào vòng tử tội, môi ra đi tìm đường sống nay không chịu nổi gian khổ mà lại trở về, mang cái ách cũ, rồi lại không khói chết dần chết mòn u? Kía người ta cũng đi với mình, mà bây giờ đã làm nên nhà của, vườn tược, không lẽ mình chịu kém sao? Chị bằng ta ở lại đây thử sức với trời keo nữa xem sao.
Thế rồi đoàn người đồng ý ở lại. Vì phía dưới đồng bằng người ta đã ở hết, nên đoàn người kéo nhau lên phía trung du, định cư bên cạnh làng Tông Lý. Đất ở đây cao mà lại khô, mùa hẻ các sông suối đều cạn, nên việc cày cấy khó khăn và ké Nhưng cũng không còn cách gì hơn, họ lại cày sâu cuốc bắm, chăm chỉ làm ăn. Dần dần vườn tược nhà của mọc lên, ranh giới được phân định, làng Quảng Châu được hình thành từ đó.
Ít lâu sau, một sự cố xảy ra, khiến người Quảng Châu mất gần nửa phần đất. Nguyên do là bên làng lân cận, tức làng Tùng Lý có nhà nọ sinh được người con gái vô cùng xinh đẹp. Năm năng 16 tuổi gặp khi vua hạ chiếu kén cung nữ, quân trên liền bắt nàng đem tiến cung vào Kinh đô. Sống trong cảnh lầu son, gác tía, lại được tô điểm bởi vàng ngọc lụa là, cô gái vùng chân đèo Ngang, chẳng bao lâu đã trở thành một trang quốc sắc.
Nhưng bà phi trẻ đẹp sống trong cung tâm chín năm trời mà không có con. Rồi thời gian qua, tình yêu của bậc đế vương không mấy khi bèn bị. Nhà vua bắt đầu say mê những phi tần trẻ đẹp khác. Biết có ở trong cung cũng chỉ là kéo dài cuộc đời thừa, bà phi liên xin vua về quê ở cùng cha mẹ. Nhà vua cũng thuận tình và truyền rằng:
- Nay khanh bỏ trẫm mà đi chắc không bao giờ thấy mặt nữa.
Trước lúc chia li, khanh có ước vọng gì cứ nói trẫm sẽ y cho.
Bà phí phả phục tàu:
- Tàu bộ ha, ngày nay không được sống gần bệ hạ trong chốn cong vàng điên ngọc nữa, thân thiếp chỉ xin được sống nốt những ngay tan noi chồn dân dã, ngày ngày tung kinh niệm phật. Thiếp chỉ xin được it dit dai để làm trang ấp, hông mông đủ phụng đường mẹ già và độ thân là đủ.
Vua truyền rằng:
Cho phép người nhà của phí cất tiết một con gà, buộc vào lưng ngựa, đi về phía tây, mâu nhỏ xuống nơi nào thì cho chiếm đất nơi ấy để lập ấp Phí về rồi thưa chuyện với cha mẹ. Không ngờ người cha tham lam, liền cho cất tiết một con dê, rồi buộc vào ngựa phi nude dai. Vì thế trai ấp của bà phi rộng mênh mông kéo dài đến tận Quảng Châu. Đến nay đất vùng này vẫn đó, đó là máu huyết đọng thành vũng. Quan lại địa phương thông đồng với người cha, nên biết ông làm sai lệnh vua mà vẫn làm ngơ
Dân làng Quảng Châu vốn đã vất vả vì đất cần, ruộng xấu, người đông, nay lại bị chiếm đất, nên căng cơ cực. Lúc bấy giờ trong làng có Quan Hâu, vốn là một chức quan võ, không rõ tên gi, thấy dân khổ như vậy, cầm lòng không đặng, liền bày ra một kế. Quan hầu bào dân trồng cây trong chậu lớn để cho mọc thật cao, thật to, rồi đang đêm lên bưng sang chỗ ranh giới cũ, trông xuống như thể đã mọc lâu lắm rồi, lại sai dựng nhà cửa cấp tốc trong một đêm với những tấm tranh rạ hom đã sẵn cho ra vẻ củ ký. Thế rồi sáng ngày mai, ông đem thanh niên trai trăng ra những mảnh ruộng quanh đó cấy cày. Thấy vậy viên quan lo việc trông coi trang ấp liền đem gia nhân vô trạng gậy gộc đến đánh đuổi. Ban đầu hai bên lời qua tiếng lại, rồi đến đâm đã bằng chân tay. Bọn lính sở tại cũng kéo đến tiếp tay cho bọn tôi tô đàn áp. Những trai cây dần dần yếu thế. Thấy dân làng bị đánh, quan hầu tức giân, rút gươm xông vào chém hết hơn chục tên. Bọn lĩnh và gia nhân trang ấp sợ hết via bỏ chạy tán loạn. Quan Hầu dận dân làng:
Chúng đã đi rồi, nhưng chẳng bao lâu ất trở lại, bà con mình đừng sợ gì cả, củ bám lấy răng cây và mấy túp nhà này mà cây cấy làm ăn. Phần tôi đã có tội lớn với triều đình tôi sẽ tự xử, không làm lụy đến dân làng.
Nói rồi Quân Hàu rút gươm tự tử. Dân làng võ công thương xột, liền lo chôn cất, rồi làm theo lời dặn.
Qủa nhiên, bọn tay sai bên Tùng Lý cử qua sách nhiều mãi nhưng không đuối được người Quảng Châu. Cuối cùng quan trên phải về xu.
Người Quảng Châu tất cả đều đồng thanh thưa rằng: xin tha - Đất này là đất của cha ông chúng tôi. Dân Quảng Châu chúng tôi sông đã mây đòi rồi, trồng cây đã cao, làm nhà đã cũ. Tự nhiên sao lại có người đói đuổi chúng tôi đi, xin quan soi xét.
Trước những chứng cơ đã qua rõ ràng là những góc cây xanh um, những nóc nhà ám khói quan đành phải xử cho người Quảng Châu được sống trên nền đất cũ của họ. Đế ghi nhỏ công ơn Quan Hầu, dân làng đã lập miếu thờ. Ngày nay miếu thờ ấy vẫn còn ở làng Quảng Châu, huyện Quảng Trạch.
Từ đó, mỗi lần được ăn thứ mầm quy do tự tay mình làm rà, người trong làng thường nói với nhau:
"Ân mắm hàm hương nhớ thương ông Cống."
Nguồn: " Văn học dân gian Quảng Bình" - Trần Hùng NXB Văn Hóa Quảng Bình