17. Người chị dâu tốt bụng
Thuở ấy, tại một làng biển cạnh lạch Ròn có hai anh em nhà nọ cùng làm nghề chài lưới. Cả hai anh em đều có vợ. Nhà họ cùng cất trên mảnh đất do cha mẹ để lại; nhưng cửa ngõ hai nhà lại mở ra hai phía khác nhau. Tuy vậy, nhà nọ nói to nhà kia vẫn có thể nghe được rất rõ, vì hai nhà sát vách nhau.
Người anh vốn sáng ý và tháo vát nên sớm học được nghề chài lưới do cha ông truyền lại. Nhờ giỏi nghề, sau nhiều năm ra khơi vào lộng, anh đem được rất nhiều tôm cá. Tóm lại, vùng biển nào anh lái tàu vào thì vùng biển đó anh cũng đánh bắt được nhiều tôm cá. Nhờ thế mà gia đình anh có cuộc sống sung túc, vợ con no đủ.
Mặc dù giàu có, nhưng người anh vẫn rất kín tiếng, ít tiếp hớt, ích kỉ. Anh không bao giờ nói cho ai biết vùng biển có nhiều tôm cá. Nếu có ai hỏi thì anh cũng chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Để giữ kín những vùng biển riêng của mình, bao giờ anh cũng cho thuyền đi sau về trước, hoặc ngược lại, chứ không đi nhập đoàn với các thuyền khác.
Trái với người anh, người em hiền lành, chất phác, thật thà. Anh cần cù chịu khó trong việc lưới chài, nhưng do còn trẻ tuổi, còn ít kinh nghiệm, nên anh đánh bắt được rất ít cá, tôm. Nhiều chuyến đi biển thuyền anh phải về không. Nhà anh vì vậy cũng chật vật, đói nghèo hơn nhà người anh. Biết mình làm ăn thua chúng kém bạn, nhiều lần anh cũng tính nhờ người anh bày vẻ cho, nhưng biết tính người anh vốn chẳng muốn cho ai hơn mình, nên cũng ngại. Anh chỉ biết than vãn thở dài mỗi khi vợ con nói ra nói vào vì thuyền đi câu lỗ mồi, bữa lưới không cá...
Ra đi thì sợ lỗ mồi
Không đi vợ nói, đừng ngồi không yên.
Thấy tình cảnh nheo nhóc của gia đình người em, người chị dâu thương lắm. Chị thường giấu chồng giúp gia đình em chồng khi bắt gạo, khi quan tiền. Một ngày nọ, thấy chồng đi câu về cá đầy hai rổ, mà người em lại về không, chị bèn hỏi: "Sao anh lại câu được đầy rổ, còn chú nó chẳng được con nào?".
Người chồng nghe vợ hỏi nhưng vẫn tảng lờ như không nghe thấy gì. Thấy người vợ gặng hỏi mãi, người chồng đành ghé tai nói nhỏ với vợ và dặn thêm: "Tôi nói thì mình biết vậy thôi nhé. Đừng có dại miệng hở ra với ai mà con mình mất bữa đấy". Chị vợ nghe chồng nói, mỉm cười.
Sáng hôm sau, khi chồng đã ra biển, chị ôm con lên võng, vừa ru vừa hát:
Lú la (1) ơi hời Lú la
Đã mất giấc ngủ lại xa đường chèo
Đầu bằng Cát xước (2) Đường leo (3)
Đã gần đường chèo lại được gạo ăn.
Suốt cả buổi sáng, người chị dâu cứ hát đi hát lại một câu ấy. Chiều hôm đó, người em đi biển về, cũng chỉ câu được dăm ba con cá nhỏ. Thấy chồng buồn bực, vợ anh kể cho anh nghe chuyện người chị dâu ru con và đọc lời ru ấy cho anh nghe. Chị khuyên chồng đừng buồn, ngày mai thử đi một chuyến biển ra Cát xước, Đường leo xem sao.
Nghe lời vợ, quả nhiên chuyến đi biển hôm sau, người em câu được rất nhiều cá. Từ đó, gia đình người em khấm khá hẳn lên. Nhìn cảnh cả nhà vui vẻ bên nồi cơm trắng, người em và người chồng người em cứ nhắc mãi tấm lòng người chị dâu tốt bụng.
Nguồn: " Văn học dân gian Quảng Bình" - Trần Hùng NXB Văn hóa Quảng Bình